Trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường nước của doanh nghiệp là một loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng; theo đó, doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm pháp luật làm suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường nước hoặc xảy ra sự cố môi trường nước liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp
1. Cơ sở pháp lý và điều kiện để thực hiện khởi kiện yêu cầu doanh nghiệp bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường nước
Hệ thống pháp luật Việt Nam đã có các quy định bảo vệ quyền khởi kiện và yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường nước. Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định rằng chủ sở hữu và chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại từ người gây hại. Người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu bồi thường khi bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản và quyền lợi khác. Bộ Luật Dân sự năm 2015 cũng quy định rằng chủ thể làm ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, ngay cả khi không có lỗi.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 yêu cầu các tổ chức gây ô nhiễm và suy thoái môi trường phải khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Quy định giải quyết tranh chấp giữa các bên liên quan đến yêu cầu bồi thường thiệt hại sẽ tuân thủ quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng.
Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định rằng tổ chức và cá nhân gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước phải chịu trách nhiệm khắc phục hậu quả ô nhiễm, cải thiện chất lượng nước và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Người khởi kiện phải đáp ứng các điều kiện sau để chứng minh một trường hợp bồi thường thiệt hại:
Thứ nhất, phải có thiệt hại xảy ra: Có thiệt hại vừa là điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH, vừa là cơ sở để tính mức bồi thường. Khi có thiệt hại, mới xem xét đến các yếu tố còn lại của căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Thiệt hại về ô nhiễm môi trường nước bao gồm: Thiệt hại làm môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích được thể hiện qua chất lượng của các yếu tố môi trường bị tác động thấp hơn với tiêu chuẩn chất lượng; sự suy giảm hệ sinh thái, giống loài; khả năng phục hồi, tái tạo. Loại thiệt hại này thường được gọi là thiệt hại trực tiếp hay thiệt hại nguyên phát và gắn liền với chủ thể là Nhà nước, cộng đồng dân cư;
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra. Cách xác định thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe và tài sản được quy định lần lượt tại Điều 591, 590, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thứ hai, phải có hành vi gây ra thiệt hại: Doanh nghiệp có hành vi gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm BTTH khi:
Hành vi gây ra thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật bảo vệ môi trường, bao gồm hành vi thực hiện không đúng các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường như xả thải chưa qua xử lý hoặc không thực hiện hành vi mà pháp luật quy định doanh nghiệp bắt buộc phải thực hiện như không tiến hành đánh giá tác động môi trường khi triển khai dự án… gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng của cá nhân, tổ chức;
Xác định cụ thể hành vi do doanh nghiệp nào thực hiện, doanh nghiệp này có năng lực chủ thể (tư cách pháp nhân) và có khả năng thực hiện việc BTTH hay không. Bởi, trong việc gây ô nhiễm môi trường nước tại một lưu vực không phải chỉ do doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm, hoặc khi có thiệt hại nhưng lại không xác định được chủ thể gây ô nhiễm.
Thứ ba, có quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra: Khi có thiệt hại xảy ra, người khởi kiện cần phải chứng minh rằng hậu quả này là kết quả tất yếu của hành vi gây ô nhiễm môi trường nước của doanh nghiệp, ngược lại, hành vi gây ô nhiễm môi trường nước là nguyên nhân trực tiếp hoặc là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại xảy ra. Bởi lẽ, có những hành vi vi phạm pháp luật môi trường nhưng không làm rõ được mối quan hệ với thiệt hại xảy ra, nên chủ thể thực hiện hành vi chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, việc xác định mối quan hệ giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra trong lĩnh vực môi trường nói chung, môi trường nước nói riêng là khó xác định. Các thiệt hại không xảy ra tức thời ngay sau khi có hành vi, mà có những thiệt hại cần khoảng thời gian rất dài, như việc xác định thiệt hại về sức khỏe phải cần đến 05 năm đến 10 năm mới thấy rõ..
Thứ tư, người gây thiệt hại có lỗi: Khi có khởi kiện yêu cầu BTTH đối với doanh nghiệp có hành vi gây ô nhiễm môi trường nước được thực hiện theo quy định về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng, lỗi không phải là yếu tố để doanh nghiệp có trách nhiệm bồi thường có thể loại bỏ hoặc giảm trừ trách nhiệm. Điều này có nghĩa, chỉ cần có hành vi gây ô nhiễm môi trường nước thì doanh nghiệp có hành vi vi phạm phải có trách nhiệm BTTH. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc: Bảo vệ môi trường là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân. Hơn nữa, do hậu quả rất lớn, nguy hiểm đối với môi trường nước của hành vi gây ô nhiễm môi trường đối với xã hội, nên doanh nghiệp có hành vi gây ô nhiễm môi trường nước đều bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình.
2. Một số bất cập của pháp luật trong việc thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu doanh nghiệp bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường nước
Bất cập về quyền khởi kiện: Việc khởi kiện và bảo vệ quyền lợi của những người bị thiệt hại là một vấn đề pháp lý quan trọng. Tuy nhiên, trong tranh chấp môi trường, có hàng ngàn hộ gia đình và cá nhân bị thiệt hại trên nhiều khu vực khác nhau. Không phải ai cũng có thể tự mình khởi kiện và việc này tạo áp lực cho hệ thống pháp luật và trở ngại cho những người bị thiệt hại trong việc đưa ra chứng cứ để khởi kiện. Do đó, cần thiết phải có cơ chế đại diện để thực hiện quyền khởi kiện tập thể.
Bất cập về nghĩa vụ chứng minh thiệt hại: Pháp luật yêu cầu bên khởi kiện phải chứng minh thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp. Điều này tạo ra gánh nặng cho những người bị thiệt hại vì việc điều tra và giám định thiệt hại yêu cầu chi phí cao và hạn chế kiến thức pháp luật của những người nông dân bị ảnh hưởng. Hiện nay, yêu cầu bồi thường thiệt hại thường được giải quyết qua thương lượng và hòa giải, và chỉ khi không thể giải quyết được, khởi kiện mới xảy ra.
Bất cập về thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường nước là 3 năm, tính từ ngày người bị thiệt hại biết hoặc phải biết về việc xâm phạm quyền lợi của mình. Mặc dù thời hiệu này đã được kéo dài so với luật dân sự trước đây, nhưng vẫn còn tranh cãi về việc cần kéo dài thời hiệu này. Điều này do pháp luật chưa phân biệt rõ thời hiệu khởi kiện cho các yêu cầu bồi thường về tài sản, sức khỏe và tính mạng con người, cũng như môi trường tự nhiên. Đối với các thiệt hại về sức khỏe và môi trường tự nhiên, thời gian để xác định hậu quả có thể kéo dài hơn.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về quyền khởi kiện tập thể thông qua người đại diện.
Đề xuất đầu tiên là hoàn thiện quy định về quyền khởi kiện tập thể thông qua người đại diện, giúp giảm áp lực cho Tòa án và tạo điều kiện cho các hộ dân bị thiệt hại có thể tham gia yêu cầu bồi thường. Đề xuất thứ hai là xác định rõ cơ quan nào sẽ đại diện khởi kiện trong trường hợp thiệt hại về tính mạng, tài sản và sức khỏe của các hộ dân. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường môi trường tự nhiên của cơ quan quản lý nhà nước. Một đề xuất khác là cho phép tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường hoặc các tổ chức xã hội mà nguyên đơn là thành viên như Hội Nông dân đại diện để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, hiện tại chưa có Luật về Hội, do đó, Ủy ban nhân dân được đề xuất là lựa chọn hợp lý hơn, vì đây là cơ quan hành chính địa phương có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên môi trường tại địa phương.
Thứ hai, tham khảo quy định “hoán đổi nghĩa vụ chứng minh” của pháp luật nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam cần thay đổi và áp dụng quy định “hoán đổi nghĩa vụ chứng minh” tương tự như pháp luật Trung Quốc. Theo đó, các doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm chứng minh rằng các cáo buộc không có căn cứ hoặc không có quyền miễn giảm trách nhiệm pháp lý, đồng thời phải chứng minh rằng không có mối liên hệ giữa hành vi của doanh nghiệp và thiệt hại xảy ra. Người khởi kiện chỉ cần chứng minh rằng có hành vi gây ô nhiễm môi trường. Việc chứng minh mức độ thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả sẽ thuộc về doanh nghiệp. Để hướng dẫn các bên trong việc chứng minh thiệt hại, đề xuất rằng Bộ Tài nguyên và Môi trường cần hợp tác với Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan để xây dựng văn bản hướng dẫn cách xác định thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường nước của các chủ thể gây ô nhiễm, chủ yếu là các doanh nghiệp.
Thứ ba, sửa đổi thời hiệu khởi kiện.
Như đã phân tích, việc không phân biệt rõ ràng giữa thiệt hại đối với môi trường tự nhiên với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của cá nhân và thiệt hại về tài sản sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Sự suy giảm của môi trường và thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người cần phải có khoảng thời gian dài mới thấy rõ hậu quả. Vì vậy, pháp luật cần tách thời hiệu yêu cầu BTTH đối với các loại thiệt hại trên và sửa đổi thời hiệu khởi kiện đòi BTTH về tính mạng, sức khỏe đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường nói chung là 10 năm.
Nguồn: NGO tổng hợp